Skip Ribbon Commands
Skip to main content

Hà Nội tập trung các giải pháp tháo gỡ khó khăn trong chăn nuôi

Thủ đô Hà Nội có nhiều điều kiện thuận lợi để chăn nuôi phát triển, với diện tích đất sản xuất nông nghiệp trên 197 nghìn ha, chiếm 58,9% tổng diện tích đất tự nhiên. Theo thống kê, thời điểm tháng 02/2023, tổng đàn trâu hiện có 28,7 nghìn con, tăng 4,1% so với cùng kỳ năm trước; đàn bò 128,4 nghìn con, giảm 0,1%; đàn lợn 1,4 triệu con, tăng 3,7%; đàn gia cầm 38,7 triệu con, tăng 0,5%. Sản lượng thịt trâu hơi xuất chuồng 02 tháng đầu năm 2023 đạt 343 tấn, tăng 7,2% so với cùng kỳ năm trước; thịt bò 1,9 nghìn tấn, tăng 0,5%; thịt lợn 40,6 nghìn tấn, tăng 5,7%; thịt gia cầm 27,3 nghìn tấn, giảm 0,4%; trứng gia cầm 464 triệu quả, tăng 4,3% so cùng kỳ.



Về nhu cầu tiêu thụ và khả năng đáp ứng sản phẩm chăn nuôi trên địa bàn thành phố, với khoảng trên 10 triệu người dân đang sinh sống, làm việc, học tập trên địa bàn và hàng năm đón hàng triệu du khách trong nước, quốc tế thăm quan, làm việc do vậy nhu cầu tiêu dùng sản phẩm chăn nuôi của thành phố là rất lớn. Theo thống kê, ước tính nhu cầu tiêu dùng thịt lợn tại thành phố khoảng 19.300 tấn/tháng, khả năng đáp ứng 13.700 tấn/tháng đạt 71%, nhu cầu cần cung cấp từ các tỉnh, thành phố khác khoảng 5.600 tấn/tháng (29%). Với thịt trâu bò nhu cầu khoảng 5.370 tấn/tháng, đáp ứng khoảng 1.000 tấn/tháng đạt 18,6%, nhu cầu cung cấp từ các tỉnh, thành phố khác là 4.370 tấn/tháng (81,4%). Thịt gia cầm, nhu cầu tiêu dùng khoảng 6.400 tấn/tháng, đáp ứng 13.500 tấn/tháng; trứng gia cầm, nhu cầu khoảng 129 triệu quả/tháng, khả năng sản xuất của thành phố đạt 200 triệu quả/tháng. Như vậy về khả năng tự sản xuất, cung ứng các sản phẩm chăn nuôi của Hà Nội cơ bản đáp ứng đối với các sản phẩm thịt gia cầm, trứng gia cầm. Riêng thịt trâu, bò khả năng đáp ứng khoảng 18,6% thịt lợn khả năng đáp ứng khoảng 71%. Lượng sản phẩm chăn nuôi còn thiếu được cung ứng bởi các kênh phân phối, doanh nghiệp, siêu thị đóng trên địa bàn Hà Nội khai thác từ các tỉnh, thành phố khác và một phần nhập khẩu từ nước ngoài (theo thị hiếu người tiêu dùng).

Thời gian qua, các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo, đang tập trung thực hiện chiến lược phát triển chăn nuôi đã được phê duyệt, trong đó phải kể đến việc quy hoạch các vùng chuyên canh, tập trung và trang trại quy mô lớn để nâng cao hiệu quả chăn nuôi, từng bước giảm chăn nuôi nhỏ lẻ; đặc biệt giảm nhanh chăn nuôi tại các quận và một số huyện có lộ trình lên quận mà HĐND Thành phố đã thông qua tháng 7/2020. Đến nay có 162 xã chăn nuôi trọng điểm bao gồm 15 xã chăn nuôi bò sữa, 39 xã chăn nuôi bò thịt, 48 xã chăn nuôi lợn, 60 xã chăn nuôi gia cầm. Về quy mô trang trại theo tiêu trí của Luật Chăn nuôi Hà Nội hiện có 6.515 trang trại chăn nuôi trong đó 91 trang trại chăn nuôi quy mô lớn, 1.387 trang trại chăn nuôi quy mô vừa, 5.037 trang trại chăn nuôi quy mô nhỏ. Chăn nuôi của thành phố đang hướng đến các mô hình chăn nuôi lớn, an toàn sinh học, ứng dụng công nghệ cao, đồng thời đang từng bước tiến tới quy hoạch chăn nuôi gắn với giết mổ, sơ chế, chế biến nhằm phát triển các chuỗi và cung cấp thực phẩm an toàn cho người dân Thủ đô. Về công tác phòng chống dịch bệnh thời gian qua được tập trung chỉ đạo tổ chức tốt việc giám sát dịch bệnh tại các cơ sở, tiêm phòng tổng tẩy uế môi trường, tăng cường kiểm dịch, quản lý vận chuyển nên không để dịch lớn xảy ra, nhất là các dịch bệnh nguy hiểm. 

Tuy nhiên ngành Chăn nuôi tại Việt Nam nói chung, Hà Nội nói riêng cũng đang đứng trước những khó khăn, thách thức lớn; đặc biệt việc quy hoạch chăn nuôi tại các địa phương chưa được đồng bộ, còn khá nhiều bất cập trong tổ chức triển khai thực hiện; tốc độ đô thị hóa quá nhanh, ảnh hưởng nhiều đến tốc độ phát triển chăn nuôi. Bên cạnh đó, việc áp dụng Luật Chăn nuôi và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật cũng như các văn bản có liên quan vẫn còn chậm. Trong quá trình triển khai địa phương còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc do văn bản hướng dẫn chưa được phổ biến đầy đủ, kịp thời. Công tác kiểm tra, giám sát chất lượng giống vật nuôi, thức ăn chăn nuôi, môi trường chăn nuôi chưa được quan tâm chỉ đạo quyết liệt. Cơ chế thị trường và những áp lực của sản xuất chăn nuôi trong nước thời gian qua có ảnh hưởng nhất định đến việc chỉ đạo điều hành và phần nào đó đã ảnh hưởng không nhỏ đến đối tượng quản lý, phương pháp tiếp cận dẫn đến hiệu quả, hiệu lực quản lý chưa cao. Việc quản lý vận chuyển, nhất là hoạt động giết mổ nhỏ lẻ tỷ lệ còn cao, việc kiểm soát đầu ra còn nhiều hạn chế, nhất là tại các vùng, các cơ sở chăn nuôi tập trung, các khu vực chợ truyền thống gia súc, gia cầm chưa được kiểm soát sau giết mổ ở một số nơi, một số vùng còn cao.

Riêng với Hà Nội, tốc độ đô thị hóa nhanh, tại một số huyện đã có lộ trình lên quận (Đông Anh, Gia Lâm, Thanh Trì, Hoài Đức, Đan Phượng) song số lượng chăn nuôi hiện vẫn rất lớn, có cơ sở giết mổ tập trung việc chuyển đổi, di dời trong những năm tới sẽ gặp không ít khó khăn, thách thức. Những năm qua, việc xây dựng các chuỗi liên kết gắn từ chăn nuôi, giết mổ, chế biến sâu đã được quan tâm, nhân rộng song một số chuỗi liên kết chưa hoàn chỉnh, quy mô liên kết chủ yếu là vừa và nhỏ; các sản phẩm trong chuỗi còn thiếu các sản phẩm chế biến sâu, chất lượng cao, việc liên kết giữa các doanh nghiệp với người sản xuất còn lỏng lẻo, hiệu quả chưa cao, chưa bền vững thậm chí có tình trạng phá hợp đồng, đứt gãy chuỗi liên kết. Việc quy hoạch vùng chăn nuôi tập trung ở một số địa phương chưa được quan tâm chỉ đạo quyết liệt, nhất là việc triển khai cơ sở giết mổ mặc dù thành phố đã có quyết định phê duyệt (Quyết định 761 ngày 17/2/2020). Chưa có nhiều vùng chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao và chăn nuôi đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn VietGap, hữu cơ, chăn nuôi an toàn sinh học. Đây thật sự là những khó khăn, thách thức đối với ngành Chăn nuôi Thủ đô thời gian tới.

Về hoạt động giết mổ, chế biến gia súc, gia cầm, an toàn thực phẩm, hiện thành phố có tới 730 cơ sở giết mổ gia súc, gia cầm song số lượng cơ sở giết mổ tập trung có kiểm soát, cơ sở giết mổ công nghiệp còn thấp; cơ sở giết mổ nhỏ lẻ còn cao nên việc quản lý gia súc, gia cầm sau giết mổ đảm bảo an toàn thực phẩm còn gặp nhiều khó khăn, bất cập. Hạ tầng thương mại chưa phát triển đồng bộ, nhất là tại các huyện ngoại thành, cơ sở hạ tầng của nhiều chợ đã xuống cấp nên khó khăn cho công tác phục vụ tiêu dùng thực phẩm của người dân. Bên cạnh đó, người dân, người tiêu dùng chưa có thói quen tiêu dùng đối với thịt mát, thịt cấp đông, ảnh hưởng nhiều đến việc tiêu thụ các sản phẩm này, kéo theo tâm lý e ngại đầu tư vào lĩnh vực giết mổ công nghiệp đảm bảo an toàn thực phẩm của nhiều tổ chức, cá nhân. Tình hình khí hậu, thời tiết diễn biến bất thường, nguy cơ dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm còn diễn biến phức tạp, giá cả nguyên vật liệu đầu vào tăng cao ảnh hưởng trực tiếp đến đầu tư sản xuất, sơ chế, chế biến sản phẩm chăn nuôi. Tình hình vận chuyển, buôn bán động vật, sản phẩm động vật nhập lậu, không rõ nguồn gốc, xuất xứ từ các tỉnh khác vào Hà Nội đã được kiểm soát song việc kiểm tra, kiểm soát nguồn gốc sản phẩm động vật nhất là tại các chợ, các điểm bán lẻ còn gặp nhiều khó khăn do nguồn nhân lực tại cơ sở còn mỏng.

Một số giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, thách thức trong chăn nuôi thời gian tới tại Hà Nội:

Tập trung triển khai chiến lược phát triển chăn nuôi giai đoạn 2022 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 mà Thành phố đã phê duyệt, trong đó tập trung hoàn thiện cơ chế, chính sách, nhất là việc quy hoạch chăn nuôi tập trung đối với các huyện nằm trong quy hoạch; giảm nhanh chăn nuôi nhỏ lẻ, chăn nuôi tại các quận. Phát triển các chuỗi cung ứng sản phẩm chăn nuôi đảm bảo an toàn chất lượng, nâng cấp, phát triển chuỗi giá trị ngành hàng.

Tăng cường thực hiện các chính sách quản lý nhà nước về điều kiện chăn nuôi, giống vật nuôi đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, nhất là quy mô trang trại chăn nuôi lớn. Thay đổi cách tiếp cận về phương thức quản lý sản xuất, tăng cường kiểm tra, kiểm soát, quản lý chất lượng sản phẩm đầu ra là con giống cung cấp cho sản xuất. Tạo điều kiện tốt nhất để các cơ sở sản xuất con giống phát triển, tiêu thụ theo đúng định hướng của thành phố là tập trung nâng cao chất lượng giống mang lại hiệu quả kinh tế cao. Đối với các doanh nghiệp chăn nuôi theo chuỗi, tạo điều kiện để các doanh nghiệp áp dụng công nghệ cao, phần mềm quản lý tiên tiến; tăng cường chọn lọc để nâng cao tiềm năng sản xuất đàn giống, giảm giá thành con giống, tăng năng suất thịt, trứng, sữa.

Tiếp tục làm việc với các doanh nghiệp sản xuất thức ăn chăn nuôi để chủ động tìm kiếm và tận dụng tối đa nguồn nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trên địa bàn thành phố nhằm đa dạng hóa nguồn cung, giảm bớt sự phụ thuộc vào một số nguyên liệu nhập khẩu, giảm giá thành. Tuyên truyền để các cơ sở chăn nuôi áp dụng tối đa các tiến bộ kỹ thuật và công nghệ cao trong chăn nuôi về chuồng trại, thiết bị, con giống, quản trị để nâng cao hiệu quả sử dụng thức ăn chăn nuôi. Với các quy mô chăn nuôi vừa và nhỏ, nhất là chăn nuôi trâu, bò, tận dụng tối đa các nguyên liệu sẵn có tại chỗ để làm thức ăn chăn nuôi (thức ăn thô xanh, phụ phẩm nhà bếp, nhà hàng ...). Thu hút doanh nghiệp xây dựng cơ sở chế biến thức ăn chăn nuôi nuôi, nhất là các loại thức ăn hỗn hợp (TMR, FMR ...) tại các vùng có điều kiện (Ba Vì, Phúc Thọ, Sóc Sơn ...) để chủ động nguồn thức ăn tại chỗ cho chăn nuôi trâu, bò.

Nhân rộng, phát triển chăn nuôi theo chuỗi giá trị sản phẩm, nhất là các doanh nghiệp, hợp tác xã đã có điều kiện phát triển tốt. Lấy doanh nghiệp, Hợp tác xã là yếu tố kết nối nông dân. Các địa phương tuyên truyền và hỗ trợ phát triển các chuỗi ngành hàng lớn, sản phẩm chăn nuôi chủ lực (như thịt lợn, thịt gia cầm, trứng, sữa), các chuỗi sản phẩm đặc hữu, bản địa, hữu cơ gắn với sinh thái, văn hóa và du lịch tại các địa phương. Đồng thời phát triển chăn nuôi an toàn sinh học, kiểm soát dịch bệnh, giảm chi phí thú y. Tập trung xây dựng và nâng cao tỷ lệ các trang trại chăn nuôi quy mô lớn thực hiện và chấp hành tốt việc cấp điều kiện chăn nuôi và cơ sở an toàn dịch bệnh. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại để xử lý và tận dụng hiệu quả chất thải và cải tạo môi trường chăn nuôi; xử lý chất thải hữu cơ, nước thải trong chăn nuôi thành phân bón hữu cơ; ưu tiên sử dụng công nghệ sinh học, chế phẩm vi sinh để kiểm soát môi trường; áp dụng các biện pháp giảm phát thải khí nhà kính phù hợp. Nhân rộng và phát triển các mô hình, chăn nuôi ứng dụng công nghệ cao chăn nuôi theo chuỗi giá trị, truy xuất nguồn gốc sản phẩm chăn nuôi.

Tăng cường công tác phối hợp trao đổi thông tin giữa khối công và khối tư trên địa bàn thành phố, đặc biệt là các đơn vị, tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động theo chuỗi nhằm thúc đẩy hợp tác, tiêu thụ sản phẩm. Tiếp tục thông tin, tuyên truyền quảng bá các chuỗi cung ứng sản phẩm chăn nuôi an toàn trên toàn thành phố thông qua các đơn vị truyền thông của Trung ương và Hà Nội để kịp thời nắm bắt, cung cấp thông tin cho các cơ sở, người tiêu dùng. Phối hợp với các tỉnh, thành trên cả nước tuyên truyền về công tác phát triển chăn nuôi, xúc tiến thương mại, kết nối, liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm chăn nuôi an toàn và quản lý chất lượng, truy xuất nguồn gốc sản phẩm chăn nuôi giữa các tỉnh và Hà Nội. Trong đó tăng cường phối hợp với các cơ quan chuyên ngành Chăn nuôi và Thú y trong công tác kiểm dịch động vật liên tỉnh, phòng chống dịch bệnh, xử lý các vi phạm. Làm tốt công tác tập huấn, hỗ trợ, nâng cấp chuỗi cung ứng sản phẩm chăn nuôi an toàn thành chuỗi giá trị bền vững theo chuẩn mực được chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng tiên tiến. Tổ chức các hội nghị, hội thảo, xúc tiến thương mại, kết nối tiêu thụ, trưng bày, giới thiệu sản phẩm chuỗi, cung ứng sản phẩm chăn nuôi an toàn cho người dân Thủ đô. Ngành Nông nghiệp phối hợp Sở Công thương, các sở, ngành liên quan tổ chức kết nối, tiêu thụ các sản phẩm chăn nuôi trên các hệ thống phân phối, sản xuất kinh doanh sản phẩm chăn nuôi của thành phố. Phát triển các hình thức tổ chức sản xuất trong bảo quản, chế biến và tiêu thụ sản phẩm, các hoạt động xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường, kết nối giao thương tiêu thụ sản phẩm chủ lực, sản phẩm ngành nghề tiêu biểu trên địa bàn.

Chắc chắn với các giải pháp trên được triển khai đồng bộ ngành Chăn nuôi của Hà Nội sẽ giảm khó khăn, tiếp tục có bước phát triển bền vững./.

Nguyễn Ngọc Sơn - Hội Chăn nuôi Việt Nam