Hiện nay, trên địa bàn Thành phố có 1.350 làng nghề và làng có nghề, trong đó có 334 làng nghề, nghề truyền thống và làng nghề truyền thống được UBND thành phố Hà Nội công nhận, thuộc 6/7 nhóm nghề trên cả nước, bao gồm: (1) Chế biến, bảo quản nông, lâm, thủy sản có 72 làng nghề, nghề; (2) sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có 24 làng nghề, nghề; (3) sản xuất đồ gỗ, mây tre đan, gốm sứ, thủy tinh, dệt may, sợi, thêu ren, đan lát, cơ khí nhỏ 202 làng nghề; (4) sản xuất và kinh doanh sinh vật cảnh có 14 làng nghề; (5) xử lý chế biến, nguyên vật liệu phục vụ sản xuất ngành nghề nông thôn 16 làng nghề; (6) các dịch vụ phục vụ sản xuất, đời sống dân cư nông thôn 06 làng nghề.
Năm 2024, Hà Nội có 02 làng nghề là Gốm sứ Bát Tràng, và Dệt lụa Vạn Phúc trở thành thành viên của mạng lưới các Thành phố thủ công sáng tạo Thế giới. Các làng nghề đã và đang góp phần tích cực vào chuyển dịch cơ cấu, phát triển kinh tế nông thôn, tạo tiền đề thực hiện thành công chương trình OCOP và Chương trình xây dựng nông thôn mới của Thành phố. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả tích cực, quá trình hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ sản xuất nhỏ lẻ hoạt động tại các làng nghề trên địa bàn Hà Nội cũng còn gặp nhiều khó khăn: Tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, tăng trưởng chưa tương xứng với tiềm năng và lợi thế của Thủ đô; Không chỉ thiếu nguồn vốn, mặt bằng sản xuất mà hiện nay các sản phẩm làng nghề cũng đang gặp khó về đầu ra; Chuỗi liên kết giá trị của nhiều làng nghề còn hạn chế, cơ sở hạ tầng và công nghệ chưa theo kịp yêu cầu phát triển; vẫn còn tình trạng ô nhiễm môi trường …
Luật Thủ đô (sửa đổi) được Quốc hội thông qua có đề cập nhiều nội dung về phát triển làng nghề. Tại điểm c, Khoản 2 Điều 28, Luật Thủ đô đề cập đến các biện pháp hỗ trợ việc di dời các cơ sở sản xuất trong khu dân cư, cơ sở sản xuất thuộc ngành, nghề không khuyến khích phát triển tại làng nghề ở nông thôn. Quy định này sẽ khuyến khích di dời cơ sở sản xuất trong khu dân cư, làng nghề nông thôn, góp phần giảm tải áp lực lên môi trường do quá trình hoạt động của các cơ sở sản xuất, hạn chế tình trạng ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến đời sống sinh hoạt của người dân.
Luật có những hướng dẫn rộng hơn, thể hiện tại Điều 17, Điều 18 về quy hoạch xây dựng, phát triển thủ đô; bảo vệ môi trường theo nguyên tắc phát triển bền vững, phát triển kinh tế tuần hoàn và chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu gắn với việc duy trì các yếu tố tự nhiên, đa dạng sinh học, văn hóa, lịch sử của thủ đô; bảo đảm tỷ lệ không gian xanh theo quy hoạch…
Dựa trên những định hướng về mặt pháp lý này góp phần giúp các địa phương phát triển các cụm công nghiệp, đưa các cơ sở sản xuất trong các làng nghề, khu dân cư vào khu vực sản xuất tập trung.../.
Nguyễn Vàn (TH)